Tư vấn marketing

Sản phẩm và dịch vụ của bạn mang lại giá trị gì?

Phong thủy khai vận

Khai thông khí vận, sức khỏe - tài lộc - sự nghiệp

Quý Hải | Nhà tư vấn

Thực tế - tinh tế khi ứng dụng trong cuộc sống

Khai vận năm Bính Thân 2016

Sức khỏe - Sự nghiệp - Tài lộc để đảm bảo một cuộc sống Hạnh Phúc!

Cung chúc Tân Niên

Vạn sự như ý, đại cát đại lợi!

Vững Xây Tổ ấm

Đàn ông xây nhà - Đàn bà xây tổ ấm!

Vững Xây Cuộc Sống

Đất lành chim đậu - An cư lạc nghiệp!

Feb 29, 2012

Nghiên cứu của Nielsen về niềm tin người tiêu dùng 2011

[Marketing3k.vn] Khảo sát niềm tin tiêu dùng online toàn cầu của Nielsen ,được tiến hành từ năm 2005, theo dõi lòng tin của người tiêu dùng, mối quan tâm lớn và những dự định chi tiêu trong số hơn 28.000 người sử dụng Internet ở 56 quốc gia. Mức độ tự tin của người tiêu dùng ở trên và dưới định mức 100 cho thấy mức độ lạc quan và bi quan.

Trong vòng khảo sát mới nhất, tiến hành từ ngày 30 tháng tám và 16 tháng chín, năm 2011, phần lớn số người được hỏi (64%) đồng ý rằng bây giờ không phải thời điểm tốt để mua những thứ họ muốn và cần, cứ một trong năm người châu Âu và một trong ba người Bắc Mỹ, họ nói không có tiền mặt dự phòng. Triển vọng cho người tiêu dùng ở những khu vực này bi quan hơn là ở thời điểm đỉnh cao của cuộc suy thoái năm 2009. Trong số những người trả lời ở Bắc Mỹ và châu Âu tin rằng họ đang ở trong tình trạng suy thoái, khoảng 60% tin rằng nó sẽ tiếp tục vào năm tới từ 54% trong quý 1 năm 2009.

Mối lo ngại về gắn kết nền kinh tế

Nền kinh tế đang nổi lên như là mối quan tâm hàng đầu trong số 18% của người tiêu dùng trực tuyến trên toàn cầu. Nền kinh tế đứng đầu các mối quan tâm trong Quý 4 năm 2010, trước khi nó được thay thế bởi những lo lắng về tăng giá lương thực trong nửa đầu năm nay. Có công việc ổn định tiếp ngay phía sau với 14% người tiêu dùng, tăng 5% so với ba tháng trước đây. Quản lý sự cân bằng công việc / cuộc sống, tăng giá lương thực và mối quan tâm về sức khỏe – xoay quanh năm vấn đề căng thẳng nhất cho người trả lời.

"Được dẫn dắt bởi một thị trường việc làm bị đình trệ và sự không chắc chắn về tương lai của nền kinh tế toàn cầu, mối quan tâm về an ninh việc làm và các rủi ro kinh tế khác tăng lên một nấc mới trong quý thứ ba ở nhiều nơi trên thế giới", tiến sĩ Bala. Tại Bắc Mỹ, một trong ba lo ngại về nền kinh tế tăng bảy điểm từ quý II và nhiều hơn một-trong-10 người (chiếm 12%) đang lo lắng về công việc ổn định - gia tăng năm điểm so với ba tháng trước đó.

Trong khu vực châu Á Thái Bình Dương, nền kinh tế (18%) và an ninh việc làm (15%) tăng tám và bảy điểm, nền kinh tế cũng là một mối quan tâm hàng đầu với người Việt Nam (19%), Thái Lan (29%) và Singapore (27%) .
Top 5 quan tâm trong Q3/2011

             Việt Nam                                              Châu Á Thái Bình Dương
  •   Nền kinh tế (19%)                                    Nền kinh tế (27%)
  •   Tăng giá thực phẩm (18%)                        Công việc ổn định (15%)
  •   Công việc ổn định (12%)                          Cân bằng công việc/cuộc sống (14%)
  •   Cân bằng công việc/cuộc sống (10%)       Tăng giá thực phẩm (10%)
  •   Tăng hóa đơn dịch vụ tiện ích (9%)           Ý tế (9%)
Các mục đích chi tiêu tương lai

Lần đầu tiên, Nielsen đã yêu cầu người trả lời toàn cầu về cách họ phân bổ ngân sách hàng tháng củ và nơi họ sẽ tăng hoặc giảm chi tiêu nếu ngân sách của họ tăng hoặc cho vay thêm10%. "Các kết quả được tiết lộ," ông bác sĩ Bala. "Áp đảo, có một cảm giác mệt mỏi và khát vọng bị dồn nén cho thời gian nghỉ ngơi, khi hộ gia đình chiêm ngưỡng một tăng 10% trong ngân sách, chúng ta thấy một mong muốn mở rộng phân bổ cho các loại dịch vụ như" du lịch niềm vui / kỳ nghỉ '(29%) và 'vui chơi giải trí và vui chơi giải trí (+20%). Ngoài ra còn có một cảm giác bất ổn kinh tế và sự cần thiết cho lưới an toàn, vì vậy người tiêu dùng cũng có thêm 'tiết kiệm / đầu tư (+25%). "

Ngược lại, khi ngân sách giảm 10%, tùy ý chi tiêu, đặc biệt là trong các lĩnh vực may mặc '(-21%) và ăn uống bên ngoài (-18%) bị giảm. Người tiêu dùng cũng cắt giảm chi tiêu các thiết vị và đồ dùng điện tử (-14%). "Nếu tình hình kinh tế toàn cầu xấu đi, ba khu vực này đặc biệt dễ bị tổn thương" ông Bala tiếp tục nhận định.

Trong trường hợp phải làm gì với một ngân sách nhỏ hơn, câu trả lời cũng chỉ là cắt giảm 10% trong tiết kiệm / đầu tư. "Sự bất đối xứng với mở rộng cho thấy rằng trong khi người trả lời muốn bảo toàn hoặc tăng tiết kiệm và đầu tư của họ, họ cũng nhận ra rằng họ có thể gặp phải khó khăn hơn thực tế kinh tế", tiến sĩ Bala tiếp tục.

Việt Nam – sự không chắc chắn vẫn còn

Niềm tin tiêu dùng của Việt Nam đứng ở mức 96 điểm cho Q3/2011, tụt 7 điểm kể từ đầu năm nay. Ảnh hưởng theo mối quan tâm toàn cầu, hơn hai phần ba (69%) của người tiêu dùng Việt Nam tin rằng họ đang trong một cuộc suy thoái kinh tế, tăng 6% so với quý trước. Và 37% tin rằng Việt Nam sẽ được ra khỏi một cuộc suy thoái trong 12 tháng tới.

Mặc dù có những lo ngại về suy thoái kinh tế, hơn một nửa người tiêu dùng Việt Nam (57%)vẫn còn lạc quan tin rằng triển vọng công việc sẽ tốt đên tuyệt vời trong 12 tháng tiếp theo .. Khi được hỏi về tình trạng tài chính cá nhân trong 12 tháng tới, 53% khẳng định nó sẽ tốt, tuyệt vời, sụt giảm 3% so với quý trước. Mặc dù có triển vọng khá tích cực trên thị trường việc làm và tài chính cá nhân, 61% người Việt Nam nói rằng “bây giờ không phải thời điểm tốt để mua những thứ họ cần” . Điều này khiến cho họ bị coi là phản ứng bi quan nhất trong khu vực.

Tương tự như quý trước, người tiêu dùng Việt Nam tiếp tục đưa tiền mặt dự phòng các khoản tiết kiệm (64%), kỳ nghỉ / kỳ nghỉ (31%), sản phẩm công nghệ mới (27%) và quần áo mới (26%)

So với thời điểm này năm ngoái, người tiêu dùng thực hiện các biện pháp để tiết kiệm chi phí hộ gia đình:

                                                                                       Việt Nam                Châu Á Thái Bình Dương
  • Cố gắng tiết kiệm khí đốt và điện năng                      66%                                 45%
  • Hạn chế mua quần áo mới                                         62%                                 48%
  • Cắt giảm các dịch vụ giải trí bên ngoài                       58%                                 45%
  • Cắt giảm chi phí sử dụng điện thoại                           49%                                 30%
  • Trì hoãn thay thế các vật dụng lớn trong gia đình        48%                                 32%
  • Trì hoãn nâng cấp công nghệ: máy tính, điện thoại      48%                                 38%
  • Cắt giảm các bữa ăn bên ngoài                                 45%                                  35%
  • Cắt các kỳ nghỉ hàng năm                                         40%                                  21%
Khái quát khu vực

Châu Á Thái Bình Dương tiếp tục thống lĩnh danh sách của hầu hết các quốc gia lạc quan với bảy trong số 10 nước có điểm cao nhất về tự tin của người tiêu dùng từ khu vực này. Ấn Độ, mặc dù suy giảm năm điểm, vẫn giữ vị trí hàng đầu với chỉ số 121, tiếp theo là Saudi Arabia (120), Indonesia (114), Brazil (112), Philippines (112), Thái Lan (109), United Arab Emirates (105), Trung Quốc (104), Hồng Kông (104) và Malaysia (101). Hungary (37) là quốc gia bi quan nhất trong quý thứ ba, cùng với Bồ Đào Nha (40), Hàn Quốc, Romania và Croatia (49).

Châu Á Thái Bình Dương và Mỹ Latin là khu vực lạc quan nhất quý cuối cùng với 97 điểm, trong khi khu vực Châu Á Thái Bình Dương được đăng giảm điểm khu vực từ 98 điểm trong quý 2. Trung Đông / châu Phi theo sát tại 96 điểm chỉ số với mức tăng hàng quý hai điểm. Bắc Mỹ đã giảm hai điểm xuống còn 79 và Châu Âu vẫn là khu vực bi quan nhất, ở mức thấp nhất với 74 điểm.

Các nhà tích lũy Châu Á Thái Bình Dương và nhà đầu tư

Châu Á Thái Bình Dương tiếp tục đưa ra kết quả niềm tin người tiêu dùng vững chắc bất chấp sự suy giảm chỉ số điểm của khu vực trong quý thứ ba với 97 điểm. Khu vực này tự hào có tỷ lệ phần trăm lớn nhất về các nhà tích lũy , với 61% cho biết họ có kế hoạch đưa tiền mặt dự phòng vào các khoản tiết kiệm so với mức trung bình toàn cầu là 46%. Một trong ba người tiêu dùng Châu Á Thái Bình Dương trực tuyến cũng có kế hoạch đầu tư vào cổ phiếu / các quỹ tương hỗ, cao hơn đáng kể với bất cứ nơi nào khác trên thế giới, gần như tăng gấp đôi trung bình toàn cầu 18%.

Ấn Độ đã báo cáo số điểm chỉ số niềm tin người tiêu dùng cao nhất trong bảy quý liên tiếp. Trước đó, chỉ có Indonesia, Na Uy đã đôi khi lấy vị trí số một từ Ấn Độ. Sát ngày đằng sau, sự tự tin ở Ả-rập Xê-út đã tăng 13 điểm trong quý thứ ba một chỉ số 120. Tại Saudi Arabia, nhà nước chi tiêu, hỗ trợ bởi giá dầu cao và tăng sản lượng dầu thô vẫn còn là trung tâm điều khiển hoạt động kinh tế ", ông Ashraf Arslan, Giám đốc của Nielsen Saudi Arabia nói. "lạc quan của người tiêu dùng Saudi tăng, đến như là tác động của việc công bố phân bổ ngân sách lớn và tăng chi tiêu đầu năm nay của chính phủ bắt đầu rót xuống, đạt mức công dân trung bình. Chương trình quốc hữu hóa các công việc tích cực vào cuối quý thứ hai kết hợp với tài liệu phát rộng rãi, tăng lương, các khoản vay nhà ở, và các chương trình phúc lợi công bố tiến hành để cải thiện tài chính cá nhân và mang đến triển vọng nghề nghiệp đầy hứa hẹn cho người tiêu dùng Saudi. "

Mặc cho các điều kiện tích cực của toàn bộ nền kinh tế châu Á Thái Bình Dương, 10 trong số 14 nước suy giảm từ ba tháng trước đây. Singapore và Malaysia giảm sự tự tin lớn nhất - giảm chín điểm mỗi nước. "Người tiêu dùng Singapore trở nên bi quan hơn so với quý thứ ba do tổng hợp của nhiều yếu tố", ông Joan Koh, Giám đốc, Nielsen Singapore. "Chúng chứa đựng tương lai mờ mịt về tình trạng bất ổn kinh tế vĩ mô toàn cầu đang rõ rệt hơn, tiếp tục áp lực lạm phát và sự chuyển đổi trong chính trị địa phương. Người tiêu dùng phải chứng kiến sự biến động cao hơn về giá tài sản, tăng thêm nghi ngờ cao hơn về vấn đề làm thế nào để đảm bảo, bảo vệ tài sản của họ.”
AC Nielsen

Feb 28, 2012

10 mẹo giúp marketing trong thời kì kinh tế xuống dốc

[Marketing3k.vn] Marketing là lĩnh vực đầu tiên bị ảnh hưởng khi nền kinh tế gặp khó khăn và gây ra áp lực trong dòng chảy tiền mặt. Nhưng các chuyên gia cho rằng những người nào duy trì việc chi tiêu trong marketing sẽ nổi lên và trở thành người mạnh mẽ nhất khi nền kinh tế khôi phục.

Cuộc thăm dò mới nhất của SmartCompany cho thấy rằng nhiều chủ doanh nghiệp cảm thấy khó khăn để chống lại thời kì khó khăn, và 44% nhà doanh nghiệp nói rằng họ dự định sẽ cắt giảm ngân sách quảng cáo tiếp thị để đối phó những điều kiện gây gắt trong kinh doanh.

Vài nhà doanh nghiệp cảm thấy họ không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc giảm chi tiêu vào tiếp thị. Cách làm đó sẽ mang lại những nguy cơ sụt giảm thị phần thị trường hiện tại làm cho họ đánh mất cơ hội phát triển trong tương lai.

Hơn nữa cách xử lý như vậy không có tính chiến lược trong marketing chút nào. Chúng ta không cần thiết phải thay đổi, cắt giảm chi phí để phù hợp với những điều kiện gây gắt trong marketing. Chúng ta có 10 mẹo đơn giản để tránh những cạm bẫy đó, và có được giá trị lớn nhất tương ứng với số tiền bạn chi vào marketing trong thời kì khó khăn.

1. Đừng hoang man sợ hãi

Khi khách hàng ngưng kinh doanh và tất cả dấu hiện đều cho thấy một thời kì tâm tối và suy sụp đang tiến gần đến công việc kinh doanh của doanh nghiệp, cách đối phó đầu tiên mang tính bản năng nhiều chủ doanh nghiệp đều làm là chuẩn bị tư thế phá sập màng đêm đó, cắt giảm ngân quỹ đến tận xương và chờ đợi cho đến khi mặt trời kinh tế ló dạng.

Nhưng theo Graeme Chipp, giám đốc điều hành của công ty marketing Growth Solutions Group, có nhiều chứng cứ cho rằng: trong thời kì khó khăn, cách tốt nhất các nhà marketing có thể sử dụng là nhảy vào cuộc cạnh tranh.


" Marketing nên được nhìn nhận như là sự đầu tư chứ không phải là sự chi tiền. Tôi đã thấy nhiều công ty giảm hoạt động marketing và rơi vào vòng xoắn ốc cắt giảm chi phí. Điều này làm cho sự xuất hiện của họ trên thị trường giảm xuống, doanh thu và lợi nhuận biên sụt giảm, từ đó gây ra nhiều áp lực lên chi phí còn vòng xoắn cắt giảm cứ tiếp tục", Chipp nói. Chipp cũng dẫn ra nhiều ví dụ về việc nhiều doanh nghiệp đạt được lợi ích khổng lồ trong thời kì hưng thịnh sau khi đầu tư vào marketing ở thời kì xuống dốc.

Công ty Hershey ở Mỹ đã tập trung vào chi tiêu marketing của họ vào những nhãn hiệu sản phẩm then chốt trong suốt thời kì suy yếu và rồi họ nhìn thấy một bước đi lên thật sự khi mọi thứ đều phát triển lại. Vào năm 2000, thực phẩm của Heinz đã tăng kinh phí marketing lên 16% và sau đó họ nhìn thấy thị phần thị trường của mình tăng từ 56% - 59%. Vì thế sự trung thành chi tiền vào marketing có thể mang lại nhiều thành quả", Chipp nói.

2. Tận dụng hết khả năng của khách hàng

Thay đổi trong chiến dịch marketing để thu được lợi ích lớn hơn từ khách hàng hiện tại tốt hơn tìm kiếm khách hàng mới. Cách làm đó có thể là một chiến dịch chi tiêu hiệu quả. LukeBaylis, nhà sáng lập của chuỗi thức ăn nhanh chủ yếu phục vụ cho sức khỏe, cho là cách làm đó cũng là điều ông đã tính đến trong dự đoán về khả năng dẫn đầu suy sụp nền kinh tế của Australia.

" Chúng tôi sẽ không cắt giảm chi tiêu cho marketing mà thực tế chúng tôi sẽ tăng nó. Nhưng chắc chắn sẽ có một sự thay đổi nhỏ trong việc khuyến khích lập lại hoạt động kinh doanh, việc chi tiêu của khách hàng hiện tại của chúng tôi sẽ nhiều hơn", Baylis nói.
Để làm tăng giá trị thu được từ các khách hàng hiện tại, Baylis cho rằng công ty của ông ấy sẽ thực hiện những bước thật cụ thể như:
  • Xây dựng và nhấn mạnh những chương trình về lòng trung thành của khách hàng. Chương trình này sẽ tuyên dương những khách hàng nào có quá trình tái kinh doanh với công ty hay việc chi tiêu nhiều hơn vào sản phẩm của công ty.
  • Đưa cho khách hàng lí do vì sao trở lại với công ty ở thời điểm không phải hưng thịnh nhất của công ty, thời điểm công ty gặp phải những điều kiện khó khăn về đội ngũ nhân viên.
  • Nhấn mạnh những giá trị mà khách hàng sẽ có được từ thương hiệu của bạn và khó tìm thấy chúng ở các đối thủ cạnh tranh. Trong trường hợp này là SumoSalad mang lại những lợi ích về sức khỏe cho khách hàng mà các đối thủ không thể.
Ngoài ra có những mẹo khác như:
  • Bảo đảm nhân viên bán hàng được huấn luyện đầy đủ những kỹ thuật bán hàng cần thiết và nghĩ ra cách mời khách hợp lý.
  • Gửi thư hay e-mail cho những khách hàng nào có thể tăng cường lợi ích cho kinh doanh của bạn và họ sẽ phản hồi lại tin bạn gửi kèm theo nhu cầu mua hàng.
3. Tìm kiếm những mặc cả trong việc quảng cáo.

Quảng cáo là một trong những hoạt động mà ngân quỹ marketing rót tiền vào nhiều nhất và là hoạt động đầu tiên bị cắt giảm khi có nhu cầu. Thường thì chi phí dùng vào quảng cáo khi tái đầu tư là khó có thể đo được.

Nhưng trong thời kì khó khăn thì chi phí cho quảng cáo phải bị cắt giảm (nếu bạn rõ hướng bạn đi). Ta có thể sử dụng những quảng cáo giảm giá - quảng cáo bị những nhà quảng cáo không sử dụng hay chê vào phút cuối - để truyền tải thông điệp với mức giảm giá.

Ad it Last là một doanh nghiệp kinh doanh dựa trên việc tìm kiếm và bán những quảng cáo giảm giá cho những doanh nghiệp vừa và nhỏ nào hoạt động ở Australia và Mỹ. Giám đốc điều hành Christina Tutone nói những quảng cáo đó có mức giảm giá trung bình là 40% so với giá thông thường, nhưng mức này sẽ tăng lên khi kinh tế không phát triển.

Tutone cho rằng loại quảng cáo này hơi đòi hỏi ta không tính đến con số bình phương trong lợi nhuận, nhưng bạn có thể sử dụng chúng trước một tuần và tiết kiệm chi phí đáng kể.

4. Hãy nói với khách hàng vì sao họ cần thứ bạn bán

Trong thời kì khó khăn, mọi người thường sợ hãi - thực sự khủng hoảng - do đó các doanh nghiệp cần nỗ lực hơn để chứng tỏ rằng sản phẩm hay dịch vụ của mình có thể sẽ giúp đỡ họ.

Nhà sáng lập của công ty chiến lược Marshall Place Associates ông Colin Benjamin nói trong thời kì kinh tế đi xuống thì các chiến lược marketing phải được điều chỉnh hợp lý để tập trung vào những điều quan trọng nào của khách hàng nào dễ chinh phục nhất. Để chinh phục họ thì chiến lược tiếp thị của bạn phải rõ ràng.

" Trong thời kỳ khó khăn bạn nên làm cho chiến dịch đó trở nên rõ ràng để bạn có thể biết được những điều quan trọng nào đối với khách hàng mà sản phẩm hay dịch vụ của bạn có thể giúp đỡ họ. Nếu bạn không đưa cho khách hàng thông tin về sản phẩm của bạn thì họ sẽ không dành thời gian để quan tâm bạn", Benjamin nói.


5. Siết chặt sự đo lường nguồn thu sau khi đầu tư

Doanh nghiệp kinh doanh tốt luôn luôn bảo đảm rằng họ sẽ có doanh thu từ việc đầu tư mỗi đô la vào marketing, nhưng nguyên tắc là sẽ tăng gấp đôi nếu họ chấp nhận áp lực.

Luke Baylis, nhà sáng lập SumoSalad nói ông ấy sẽ chú trọng vào khoản doanh thu vững chắc từ việc đầu tư vào những hoạt động thương hiệu trong thời kì khó khăn.

" Marketing nhắm vào thương hiệu khó mà đo lường, vì thế trong thời kỳ khó khăn thì hoạt động marketing của chúng tôi trở thành ROI. Có nghĩa là chúng tôi đếm số người vào các cửa hàng, tỷ lệ thanh toán nợ hết từ các biên nhận hay chương trình lòng trung thành của khách hàng, tất cả việc đó điều thực hiện ở cửa hàng.

Khi xem lại doanh thu từ việc đầu tư vào marketing và đã được đo lường, chúng ta thấy cần thiết tạo ra tiêu chuẩn đánh giá đối với những hiệu quả hoạt động kinh doanh bằng hay thấp hơn mức tiêu chuẩn - tập trung vào những điều như tỷ lệ doanh thu từ bán hàng hay tỷ lệ chi tiêu bình quân của mỗi khách hàng.

6. Hỗ trợ sự thành công kênh bán hàng và đối tác marketing

Trong thời kỳ khó khăn, đối tác marketing và kênh bán hàng của bạn có thể gặp khó khăn như bạn. Điều đó có thể đặt mối quan hệ thương mại vào những áp lực, nhưng nếu bạn chịu bỏ thời gian giúp họ thì cũng có thể giúp bạn tiến xa vì họ sẽ giúp lại bạn.

7. Chú ý những khách hàng nào có nguy cơ giảm kinh doanh với bạn và những sản phẩm nào có nguy cơ giảm mức tiêu thụ

Khi mọi thứ trở nên khó khăn, người tiêu dùng có xu hướng cắt giảm chi tiêu của họ, không còn mua sản phẩm xa xỉ.

Đối với vài doanh nghiệp, một chiến dịch tốt sẽ tập trung vào nỗ lực marketing cho những sản phẩm hoặc dịch vụ nào thích hợp với ngân sách hạn hẹp, theo Graeme Chipp, nhà sáng lập của The Growth Solutions Group. Ông ấy nói" điều đó không đúng cho tất cả chiến dịch, nhưng nếu thương hiệu của bạn là về quần áo, bạn có thể tập trung nhiều vào vớ, đồ lót hơn quần áo mặc thông thường, hoặc nếu bạn là công ty du lịch thì khách hàng của bạn có lẽ thích du lịch trong nước hơn nước ngoài"

Nếu chiến dịch thương hiệu của công ty nào tập trung nhiều vào sự an toàn về tài chính thì khách hàng của họ cũng có thể bảo đảm kinh doanh với họ vào thời kì khó khăn.

8. Hãy để khách hàng bán sản phẩm của bạn

Khi ngân sách hạn hẹp thì khách hàng muốn biết sản phẩm hay dịch vụ họ sắp mua có đáp ứng sự mong đợi của họ không, và có lẽ họ vẫn chưa có lời bình phẩm nào dành cho sản phẩm đó.

Các chuyên gia marketing nhấn mạnh rằng khi khách hàng xem xét đến túi tiền của họ, họ có xu hướng hỏi ý kiến, thông tin về sản phẩm của người khác hơn nhưng thông tin từ quảng cáo.

Benjamin nói thông tin chất lượng sản phẩm cho khách hàng rất quan trọng đối với công ty. Những giấy chứng nhận chất lượng sản phẩm hay bất cứ hình thức gì cho rằng người nào đó đã mua sản phẩm của công ty và sản phẩm đó đáp ứng sự mong đợi của họ nên được giành một vị trí quan trọng trong thông tin marketing.

Daniel Rechnitzer, nhà sáng lập của Shoestring Marketing cho rằng chương trình nào tặng thưởng cho khách hàng vì giới thiệu cho những người bạn của họ đến mua sản phẩm của công ty là một chiến dịch marketing tiết kiệm hiệu quả. Diễn đàn trực tuyến cũng mang lại hình thức marketing bằng miệng giá trị.

9. Đừng phá hủy thương hiệu của bạn để tăng việc bán hàng

Một điểm nhiều chuyên gia marketing đều đồng nhất ý kiến là các doanh nghiệp nên thận trọng khi áp dụng chiến dịch giảm giá mạnh tay để tăng doanh thu trong thời kì khó khăn. Công trình xây dựng thương hiệu nhiều năm của bạn có thể bị phá hủy nhanh chóng chỉ vì cách giảm giá không phù hợp, theo Sean Adams-giám đốc điều hành của công ty chiến lược The Seed.

" Có thể cần một thời gian dài để xây dựng nhận thức về một thương hiệu có chất lượng và có thể tinh tưởng. Giả sử đột xuất bạn cho là người tiêu dùng sẽ không chi tiêu, bạn bắt đầu sợ hãi và hạ giá cho khách hàng. Và khi nền kinh tế khôi phục bạn sẽ thấy họ ít có xu hướng gắn kết thương hiệu với chất lượng, kết quả bán hàng và lợi nhuận biên có được", Adam nói.

Điều đó cũng không có nghĩa là bạn nên ấn định một giá cho sản phẩm hay dịch vụ mãi mà bạn phải biết nghĩ ra cách nào đó để làm cho giá sản phẩm hay dịch vụ thích hợp hơn trong thời kỳ khó khăn.

Để tạo ra sản phẩm hay dịch vụ thu hút người tiêu dùng ít tiền mà không cần giảm giá, Adam đề xuất:
  • Cung cấp loại sản phẩm có mức giá rẻ thích hợp.
  • Tăng hiệu quả sử dụng và tính bền vững.
  • Cung cấp những sự chọn lựa thanh toán khác.

10. Bạn không thể làm cho doanh nghiệp phát triển ở thời điểm ban ngày của thị trường.

Việc một thương hiệu vững chắc có được chất lượng vào thời điểm cuối ngày của thị trường có thể giúp doanh nghiệp bạn tránh khỏi cảm giác bị tác động từ nền kinh tế đi xuống, nhưng việc đó không phải là điều có thể đạt được vào ban đêm.

Adam cho rằng hoạt động marketing thông minh ở thời kỳ thịnh vượng là rất cần thiết để đặt nền móng cho những lợi ích có được trong thời kì đi xuống.

Theo Adam thì doanh nghiệp nào đã có một chỗ đứng giá trị trên thị trường sẽ hoạt động tương đối trơn tru hơn trong thời kỳ đi xuống vì họ đã chứng tỏ với khách hàng rằng thương hiệu của họ đại diện cho chất lượng. Chắc chắn những thương hiệu như thế sẽ hoạt động tương đối thành công ngay cả trong thời kỳ khó khăn hay hưng thịnh.

Adam cũng đề cặp đến Apple - thương hiệu thành công điển hình trong việc tránh được sự suy thoái. Apple vẫn kinh doanh tốt vì trong khi họ phát triển những sản phẩm rẻ tiền và chiếm lĩnh thị trường theo cách làm đó, họ lại có một thương hiệu khác với ưu đểm là nét cách tân và thiết kế sắc sảo ngay từ ngày đầu. Họ rất hài lòng vì điều đó.
Theo Saga

Feb 27, 2012

Xây dựng thương hiệu thời kinh tế xuống dốc

Richard Moore
[Marketing3k.vn] Nền kinh tế thế giới bắt đầu rơi vào cuộc khủng hoảng trầm trọng vào cuối năm 2008. Việt Nam chịu ảnh hưởng nhẹ từ cuộc khủng hoảng này trong năm 2009 và ngày càng lún sâu khi kinh tế thế giới phục hồi chậm chạp. Trong những giai đoạn kinh tế xuống dốc như thế này, các doanh nghiệp cần quản lý hình ảnh thương hiệu và chiến lược marketing cho thương hiệu như thế nào? Bản thân tôi đã từng chứng kiến năm cuộc khủng hoảng kinh tế trong vòng hơn 35 năm qua, vì vậy với những quan sát của mình, tôi có một vài ghi nhận muốn chia sẻ cùng các bạn.

Khác với lực hút của trái đất chỉ có một chiều đi xuống, trong kinh tế dù suy thoái có đi xuống tới mức nào rồi sau đó cũng sẽ phục hồi trở lại. Vì vậy, sẽ là sáng suốt nếu doanh nghiệp cân nhắc tình hình và tìm cách nắm thế chủ động khi thời kỳ khó khăn qua đi. Bạn sẽ cắt giảm mọi thứ và cố gắng duy trì mức doanh thu cao chừng nào tốt chừng đấy? Hay bạn sẽ nằm trong số những người dám dấn một bước xa hơn và định vị thương hiệu của mình hướng tới tương lai? Thành công ngày mai bắt đầu từ sự chuẩn bị cho thương hiệu ngay từ hôm nay, và nó phụ thuộc vào việc doanh nghiệp duy trì đầu tư cho những ý tưởng mới với các sản phẩm và dịch vụ hứa hẹn nhiều tiềm năng.

Tác giả cuốn sách đã trải qua nhiều cuộc khủng hoảng kinh tế và nhận thấy rằng,
việc cắt giảm chi tiêu trong thời kỳ suy thoái là cần thiết, song quan trọng là bạn cần phải
chủ động chuẩn bị cho thời kỳ kinh tế chắc chắn sẽ phát triển trở lại

Một số thương hiệu thành công nhất thế giới ra đời trong chính các giai đoạn khủng hoảng kinh tế. Vào thời kỳ suy thoái kinh tế năm 1973-1975 ở Mỹ, công ty của tôi tại New York lúc bấy giờ đảm trách chiến dịch quảng bá giúp giới thiệu sản phẩm máy tính cá nhân đầu tiên của IBM ra thị trường, hãng Microsoft và FedEx cũng ra đời trong cùng thời gian này. Kênh truyền hình CNN và MTV được thành lập trong thời kỳ diễn ra hai cuộc khủng hoảng song hành năm 1980 và 1982.

Máy nghe nhạc iPod của Apple cũng xuất hiện lần đầu tiên trong giai đoạn suy thoái kinh tế ngắn năm 2001, sản phẩm làm trắng răng Crest’s Whitestrips cũng ra đời vào thời gian này, và sản phẩm của cả hai thương hiệu trên đều được gắn giá khá cao so với tình hình kinh tế chật vật lúc bấy giờ.

Đó rõ ràng là những bài học quý, nhưng nhiều nhà marketing lại không học từ đó. Thay vào đó, họ sẽ tinh giảm nhân viên đến mức có thể, khiến cho đội ngũ nhân lực còn lại phải làm việc quá sức. Họ sẽ cắt giảm mọi hoạt động marketing hay phát triển thương hiệu, chú trọng tối đa tới lợi nhuận ngắn hạn trước mắt trong khi làm lu mờ dần vị thế dài hạn của thương hiệu trên thị trường. Các tài liệu truyền thông marketing của doanh nghiệp sẽ trở nên dè dặt hơn và dày đặc thông tin hơn, khiến cho việc truyền tải thông điệp càng kém hiệu quả.

Mặt khác, những người làm tiếp thị và kinh doanh sành sỏi thường coi thời kỳ suy thoái như là một cơ hội để đầu tư cho tương lai. Mặc dù cũng thực hiện chính sách thắt lưng buộc bụng, song họ vẫn trở nên lanh lẹ hơn trên chính đôi chân của mình. Họ đánh giá những thay đổi trong suy nghĩ của khách hàng về giá trị, từ đó giới thiệu các sản phẩm và dịch vụ phù hợp với những thay đổi đó. Những nhà tiếp thị này nghiên cứu kỹ càng phương tiện truyền thông nào họ cần sử dụng để tiếp cận với thị trường, thường thay vì đầu tư cho các phương tiện truyền thông đại chúng họ chuyển sang các phương tiện thông tin đặc trưng nhằm hướng đến trọng tâm là các phân khúc thị trường mục tiêu cụ thể. Họ để ý quan sát những cắt giảm trong chiến lược marketing của đối thủ, tận dụng cơ hội để thu hút nhóm khách hàng mới với các hoạt động truyền thông thương hiệu mang tính bền vững. Họ cũng tập trung để làm sắc nét hơn chiến lược định vị khác biệt của thương hiệu, xây dựng bản sắc nhận diện thương hiệu một cách tập trung, nhờ vậy mọi phương tiện truyền thông sẽ liên kết với nhau trong một tổng hòa nhất quán, tạo ra sức ảnh hưởng tối đa.

Các doanh nghiệp sáng suốt luôn nỗ lực xây dựng nhóm khách hàng trung thành cho doanh nghiệp, nhưng đồng thời họ cũng nỗ lực củng cố lòng trung thành của chính các nhân viên. Nếu rơi vào thời kỳ khó khăn, doanh nghiệp sẽ cần hành động một cách nhanh chóng, và chủ động chuyển tải các hoạt động đó một cách rõ ràng và minh bạch tới nhân viên. Họ truyền tải những lý tưởng của thương hiệu một cách tự nhiên. Bằng cách đó, doanh nghiệp sẽ giúp cho nhân viên cảm thấy hợp lý và hài lòng với công việc không chỉ bởi khoản lương mà họ nhận được. Khi ấy, doanh nghiệp còn gây dựng được lòng trung thành của nhân viên đối với công ty cho tới khi nền kinh tế đi lên, trong khi các công ty đối thủ phải bắt đầu công tác tuyển dụng nhân viên mới.

Tóm lại, mặc dù những thời kỳ kinh tế xuống dốc thường kéo theo những hoạt động marketing kém hiệu quả cho thương hiệu, song chúng cũng mở rộng cửa cho nhiều cơ hội lớn. Có thể có nhiều lý do gây ra sự xuống dốc của nền kinh tế, nhưng nguyên do thúc đẩy kinh tế đi lên lại chính là thái độ tích cực của thị trường. Các nhà kinh doanh tiếp thị, những người làm công tác truyền thông marketing là những người tiếp thêm năng lượng cho nền kinh tế. Chính chúng ta đóng vai trò cơ bản trong quá trình giúp nền kinh tế sớm phục hồi.

Theo BrandDance

Feb 26, 2012

Bài học Marketing thời kỳ suy thoái

Ảnh minh họa Internet
[Marketing3k.vn] Trong thời kỳ kinh tế bất ổn, những người làm marketing có xu hướng chuyển trọng tâm từ chiến lược dài hạn sang doanh thu ngắn hạn.

Tuy nhiên, những bài học rút ra từ cuộc khủng hoảng gần đây đã gây ra nhiều tranh cãi xoay quanh việc duy trì chiến lược dài hạn ngay cả khi đối mặt với áp lực cắt giảm quảng cáo để ưu tiên khuyến mại. Những người làm marketing có khả năng vượt qua áp lực này cũng như biết sử dụng ngân sách một cách hiệu quả và sáng tạo sẽ nhận thấy sau khi vượt qua thời kỳ khó khăn, thương hiệu của họ có khả năng cạnh tranh tốt hơn.

Trong khi hầu hết các Quốc gia trên thế giới đã chính thức thoát khỏi khủng hoảng từ mùa hè năm 2009, nền kinh tế của các nước phương Tây vẫn phục hồi khá chậm chạp. Tình hình kinh tế bất ổn hiện nay, đặc biệt là nạn đầu cơ có thể khiến chúng ta rơi vào khủng hoảng kép, đang khiến cả người tiêu dùng lẫn những người làm marketing hết sức lo ngại.

Trong suốt cuộc khủng hoảng năm 2008, nhiều báo cáo thường xuyên ghi nhận người tiêu dùng thường xuyên phải “đau đầu” với các khoản chi tiêu. Ví dụ như hai phần ba người Úc cho biết thói quen chi tiêu của họ chịu tác động từ tình hình tài chính, và cứ 4 trên 10 người được hỏi nói rằng họ chi tiêu ít hơn cho các nhu yếu phẩm. (Lưu ý là nước Úc không bị rơi vào khủng hoảng). Ở Mỹ, chi tiêu bằng thẻ tín dụng tăng mạnh ở những khu vực có tỷ lệ thất nghiệp cao, và rất ít người tiêu dùng trả đầy đủ các hoá đơn thẻ tín dụng hàng tháng.

Trong những thời kỳ như vậy, khi phải đối mặt với áp lực ngân sách chi tiêu, rất nhiều người làm marketing theo đuổi lợi nhuận bằng cách khuyến mại để tối đa hoá doanh thu ngắn hạn trong khi cắt giảm đầu tư cho các hoạt động xây dựng thương hiệu dài hạn.

Tầm quan trọng của một thương hiệu mạnh

Phản ứng cắt giảm đầu tư cho những hoạt động có vẻ không cần thiết là hoàn toàn dễ hiểu, tuy nhiên cách làm này sẽ không mang lại hiệu quả cho thương hiệu trong dài hạn. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy kể từ khi kinh tế bắt đầu phục hồi nhóm các thương hiệu mạnh ở trong Top 100 của BrandZ hoạt động hiệu quả hơn những thương hiệu trong nhóm S&P 500 (chỉ số cổ phiếu bao gồm 500 loại cổ phiếu được lựa chọn từ 500 công ty có mức vốn hóa thị trường lớn nhất của Mỹ)

Minh họa - Internet

Trái lại, các thương hiệu vốn đã hoạt động kém hiệu quả từ trước khủng hoảng sẽ có xu hướng chịu tác động lớn hơn.

Một ví dụ điển hình là nhãn hiệu bán lẻ Woolworths. Mặc dù chuỗi cửa hàng này đã đóng cửa ở Mỹ từ năm 1997, Woolworths vẫn hoạt động tại Anh trong suốt thập kỷ vừa qua. Tuy nhiên, thang đo giá trị thương hiệu đã giảm đáng kể từ năm 2001 đến 2008, Woolworths không thể sống sót qua thời kỳ khủng hoảng và ngừng hoạt động vào năm 2009.

Rõ ràng, sức mạnh thương hiệu cần phải được nuôi dưỡng và duy trì trong cả thời kỳ phát triển lẫn thời kỳ bất ổn. Dựa trên kinh nghiệm nghiên cứu và tư vấn cho các thương hiệu trong nhiều thập kỷ qua, chúng tôi có thể đưa ra 5 lời khuyên cho marketing và duy trì sức mạnh thương hiệu trong thời kỳ khủng hoảng.

1. Xem xét lại kế hoạch marketing

Xem xét lại kế hoạch marketing không bao giờ là một ý tưởng tồi cả. Trong thời kỳ khó khăn, việc kiểm tra lại các nhân tố mấu chốt lại quan trọng bởi nó có thể chỉ ra cả nguy cơ lẫn cơ hội.

Barclaycard có thể minh hoạ cho thương hiệu đã tìm ra một nguy cơ tiềm ẩn. Ở Anh, Barclaycard đã thực hiện thành công một chiến dịch truyền thông với sự tham gia của người nổi tiếng trong nhiều năm. Nhưng năm 2008, thương hiệu rõ ràng đang dần trở nên mờ nhạt. Barclaycard bị coi là lỗi thời và không còn hấp dẫn đối với những chủ thẻ mới. Một nghiên cứu đã điều tra thái độ và hành vi của những khách hàng trẻ tuổi, và dẫn đến việc phát triển một chiến dịch hoàn toàn mới mang tên “Waterslide”. Số liệu doanh thu cho thấy chiến dịch mới này đã mang lại lợi nhuận 22 triệu bảng Anh.


Một thương hiệu trong lĩnh vực sản phẩm chăm sóc cá nhân cũng đã tìm ra cách biến một nguy cơ tiềm tàng – mức giá cao – trở thành một cơ hội. Trở lại năm 2000, Dove nhận thấy khó khăn với sản phẩm xà phòng dưỡng ẩm cao cấp ở thị truờng Thổ Nhĩ Kỳ. Bởi vì sản phẩm này đắt hơn rất nhiều so với các loại xà phòng thông thường, Dove nhắm tới những phụ nữ khá giả. Nhưng trong thời kỳ khủng hoảng năm 2001, đội ngũ xây dựng thương hiệu mới của công ty đã dựa trên giá trị sản phẩm để tạo ra sức hấp dẫn đối với những người tiêu dùng tầm trung, nhóm khách hàng lớn hơn, dựa trên tuyên bố Dove vừa làm sạch lại vừa dưỡng ẩm. Chi tiêu marketing của Dove tăng gấp đôi so với khoảng thời gian 2000 – 2001, két quả là thị phần tăng thêm 5% vào giữa 2002.

2. Cảnh giác với việc cắt giảm chi tiêu quảng cáo

Việc cắt giảm chi tiêu quảng cáo có thể là phương án logic để duy trì lợi nhuận ngắn hạn trong thời kỳ khủng hoảng, tuy nhiên, nó cũng có thể mang lại những hậu quả tiêu cực. Hậu quả này một phần là do quảng cáo có tác động ngắn hạn và dài han đối với thương hiệu. Trung bình, tỷ lệ ảnh hưởng dài hạn và ngắn hạn là 3:1, mặc dù con số này có thể thay đổi tùy theo các chiến dịch khác nhau, có những chiến dịch tỷ lệ là 5:1. (Chú ý: Tác động ngắn hạn nhìn chung được hiểu là những vấn đề xảy ra trong tám tuần kể từ khi bắt đầu quảng cáo.)

Mặc dù những thương hiệu tạm “ẩn mình” dường như không chịu sự thay đổi lớn nào về cảm nhận thương hiệu, 60% trong số ấy làm mất đi ít nhất một giá trị cốt lõi nào đó. Những thiệt hại như vậy có thể báo trước những vấn đề trong tương lai, bởi lẽ một khi đã có sự suy giảm thì rất khó có thể xoay chuyển lại.

Những tác động dài hạn của quảng cáo cũng được minh hoạ bằng mối quan hệ giữa thị phần thị trường(SOM) và thị phần nhận biết (SOV). Bằng chứng cho thấy khi thị phần nhận biết của một thương hiệu lớn hơn thị phần thị trường, thương hiệu đó sẽ có khả năng chiếm được thị phần cao hơn trong những năm tiếp theo. Việc cắt giảm chi tiêu quảng cáo có thể khiến mức độ ảnh hưởng của thương hiệu bị tuột dốc và thương hiệu dễ bị tác động. Mặt khác, nếu bạn tăng đầu tư marketing trong thời điểm các đối thủ cạnh tranh lại cắt giảm, thương hiệu của bạn sẽ trở nên nổi bật. Điều này sẽ giúp bạn tạo dựng lợi thế lâu dài.

Tăng chi tiêu quảng cáo trong thời điểm các thương hiệu khác cắt giảm có vẻ là một quyết định không cần thiết và lãng phí. Tuy nhiên trong khoảng thời gian như thế, khi nhu cầu truyền thông giảm, chi phí truyền thông có thể giảm và bạn có khả năng thực hiện giao dịch có lợi. Ở Anh, Audi có một chiến dịch mới, chi tiêu truyền thông từ 2008 đến 2009 tăng thêm 10%. Kết quả là số lượng đơn đặt hàng của hãng tăng 79%. Cũng tại Anh, Heinz tăng chi tiêu marketing năm 2009 để giải quyết nguy cơ đến từ các đại lý tư nhân. Sau đó, Heinz đã trở thành công ty sản xuất hàng tiêu dùng nhanh phát triển nhanh nhất tại Anh.


3. Đảm bảo quảng cáo hoạt động hiệu quả nhất có thể

Về cơ bản bạn nên duy trì mức độ đầu tư marketing, tuy nhiên bạn cũng có thể bù đắp khoản chi tiêu cắt giảm bằng cách xây dựng những quảng cáo hiệu quả hơn. Nói cách khác, với những quảng cáo cực kỳ sáng tạo, bạn vẫn có thể duy trì hay thậm chí nâng cao nhận thức thương hiệu mặc dù giảm ngân sách.

Vậy câu hỏi đặt ra là: Làm sao có thể nâng cao nhận biết về quảng cáo khi giảm ngân sách.

Câu trả lời là “Sự sáng tạo”. Những quảng cáo hay thường dễ nhớ. Năm 2009, chiến dịch “Waterslide” của Barclaycard được 46% người xem ghi nhớ và xếp hạng Top 10 trong cuộc bình chọn “Những quảng cáo của thập kỷ”.

Phân tích dữ liệu quảng cáo trên trang web Link cho thấy nhìn chung chỉ số trung bình không thay đổi suốt thời kỳ khủng hoảng. Mặc dù phải “thắt lưng buộc bụng”, người ta vẫn tìm thấy những quảng cáo phù hợp hoặc không phù hợp với tỷ lệ như trước. Quy tắc truyền thông hiệu quả không thay đổi trong thời gian khủng hoảng; quảng cáo hay vẫn cứ là quảng cáo hay ngay cả trong thời kỳ bất ổn.

4. Hãy sáng tạo với truyền thông

Thận trọng và sáng tạo khi sử dụng các kênh truyền thông có thể mang lại hiệu quả, đặc biệt là trong bối cảnh số lượng các phương tiện truyền thông ngày một gia tăng như hiện nay. Trong khi chiến dịch “Waterslide” của Barclaycard phát sóng trên truyền hình, nó cũng được chiếu ở cả rạp chiếu phim và được quảng bá trên báo chí, internet cũng như các hoạt động PR. Thêm vào đó, hãng này còn phát triển cả một trò chơi trên iPhone và mẫu quảng cáo lan truyền trên YouTube với hơn 7 triệu lượt xem.

Nếu bạn sử dụng một phương tiện cụ thể nào đó để giao tiếp với khách hàng, hãy sử dụng phương tiện ấy để truyền thông những đợt khuyến mại đặc biệt, tin tức và thông tin phù hợp. Trong suốt đợt khủng hoảng ở Brazil năm 2002, Unilever tung ra thị trường tạp chí khách hàng Diva để truyền thông với những khách hàng chủ chốt. Dựa trên kết quả nghiên cứu rộng rãi, Diva bao gồm những bài viết về ý tưởng kiếm tiền cũng như các thương hiệu của Unilever. Tạp chí cũng khuyến khích người đọc mua các sản phẩm của Unilever bằng cách truyền thông một phần lợi nhuận sẽ dành cho hoạt động từ thiện.

5. Đừng quá cảnh giác, hãy sử dụng khuyến mại hợp lý

Khuyến mại, giảm giá có thể khích thích người tiêu dùng chi tiêu, nhưng cũng có thể phá bỏ thương hiệu. Một thương hiệu cắt giảm chi tiêu cho truyền thông lại có dấu hiệu tăng thị phần cùng với khuyến mại. Phân tích cho thấy, thực tế, thị phần tăng lên hoàn toàn do giá giảm.

Trong những nhóm sản phẩm mà thương hiệu không có vai trò quan trọng (như dầu xe máy, nước khoáng và rau củ), việc giá cả khuyến mại có thể mang lại hiệu quả, nhưng, cho dù vậy, việc giảm giá vẫn có thể làm giảm giá trị thương hiệu. Ở Anh, như một hệ quả của cuộc chiến giá cả cạnh tranh giữa những thương hiệu không lên sàn chứng khoán, tổng số hàng hoá bán ra trong đợt khuyến mại tăng 15% trong một năm. Nhưng kết quả là giá trị bị sụt giảm trên thị trường – tổng giá trị của ngành giảm 14%. Cùng thời điểm đó, mức độ trung thành với một thương hiệu cụ thể cũng giảm. Trước khi xảy ra cuộc chiến giá cả, có đến 81% người mua “trung thành” với một thương hiệu, sau đó con số này chỉ còn là 55%.


Những thương hiệu cao cấp có thể gặp khó khăn khi người tiêu dùng chi tiêu tằn tiện hơn, tuy nhiên bản thân một thương hiệu cao cấp không phải là vấn đề. Khi thương hiệu xe hơi sang trọng Audi tái định hướng chiến dịch quảng cáo xoay quanh thông điệp tiết kiệm nhiên liệu, mức độ mong muốn sở hữu thương hiệu này đã tăng cao. Với cách quản lý tích cực và chủ động, thương hiệu – kể cả những thương hiệu cao cấp – có thể đảm bảo thành công dài hạn ngay cả trong thời kỳ khủng hoảng.

Theo Công ty Millwardbrown
Phương Trinh - Theo Barnddance

Feb 25, 2012

Tầm quan trọng của marketing trong khó khăn

Ảnh minh họa
[Marketing3k.vn] “Không được cắt giảm ngân sách marketing. Lịch sử cho thấy bao giờ khủng hoảng cũng mang lại những thời cơ có thể nói là tiền vô khoáng hậu cho thị trường, trong một bối cảnh không mấy sôi động, náo nhiệt do thiên hạ đều ra sức cắt giảm chi phí”.

Hiện nay, hầu hết các công ty đang thi nhau cắt giảm chi phí và thu hẹp ngân sách do ảnh hưởng của cuộc suy thoái kinh tế. Trong khi đó, những chuyên gia đầu ngành trong lĩnh vực công nghiệp lại cùng nhau đi đến một quan điểm rằng: trong thời điểm này, việc hết sức thiết yếu và tối quan trọng là không những cần phải giữ vững cơ cấu phân bố ngân sách cho marketing, mà thậm chí còn phải cải thiện cơ cấu ấy theo chiều hướng tận dụng được tối đa những cơ hội manh nha cùng với sự tấn công của cuộc khủng hoảng.

“Không được cắt giảm khoản ngân sách đó. Lịch sử cho thấy bao giờ khủng hoảng cũng mang lại những thời cơ có thể nói là tiền vô khoáng hậu cho thị trường, trong một bối cảnh không mấy sôi động, náo nhiệt do thiên hạ đều ra sức cắt giảm chi phí”, Ken Makovsky trích lời của biên tập viên trang AdAge – ông Jack Neff.

Ken Makovsky, Chủ tịch Makovsky, một công ty PR có trụ sở tại New York, chỉ ra rằng rất nhiều các doanh nghiệp hiện đang phải trải qua cuộc vật lộn với một trong những câu hỏi thường thấy nhất về giảm bớt chi tiêu: “Tại những thời điểm khó khăn như hiện nay, liệu chúng ta có nên giảm bớt đầu tư cho các sáng kiếnmarketing hay không?” Theo quan điểm của Makovsky, ông cho rằng khủng hoảng hay suy thoái không phải là thời điểm thích hợp để thu hẹp ngân sách phân bổ cho marketing.

“Nếu bạn lắng nghe Advertising Age, nghe các nhà khoa học hàn lâm, các nhà hoạt động xã hội, cũng như những chuyên gia khác, bạn sẽ ngay lập tức thay đổi điểm và cuối cùng sẽ không bao giờ làm việc đó!”, Makovsky nhận xét.

Những gì Makovsky viết trong một bài viết ở blog cá nhân của mình mang tên “Ba đồng xu của tôi” đã cho thấy quan điểm của ông rất rõ ràng về vấn đề này: Tăng cường các sáng kiến marketing cùng với các hoạt động quan hệ công chúng trong suốt những khoảng thời gian khó khăn là một vụ đầu tư khiêm tốn. “Chúng ta đang nói về một vụ đầu tư khiêm tốn nhất về cả thời gian và tiền bạc nhưng sẽ mang lại những khoản lợi nhuận không ngờ”.

Để minh chứng cho lời nói của mình, ông đã dẫn ra hàng loạt các tác giả của những bản báo cáo, những bài nghiên cứu cùng chung quan điểm, trong đó phải kể đến: Giáo sư John Quelch của Trường kinh doanh Havard; tập thể giáo sư của Trường kinh doanh Smeal bang Pennsylvania, hay McGraw-Hill. Tất cả đều đi đến một thống nhất rằng việc tăng chi tiêu cho marketing và/hoặc quảng cáo trong thời kì suy thoái kinh tế sẽ thu được những lợi ích hết sức to lớn, bao gồm kết quả hoạt động kinh doanh tốt hơn, doanh thu tăng nhanh, lợi nhuận cao hơn, và một sự thay đổi tích cực đáng kể trong nghiên cứu định vị thị trường.

“Trong thời kì khủng hoảng, người tiêu dùng sẽ hướng tới các giá trị cốt lõi nhiều hơn, các nhà phân phối thì quan tâm tới tiền mặt, còn những người lao động thì bỗng trở nên lo lắng về công ăn việc làm. Nhưng sự xuống dốc của nền kinh tế không phải là thời điểm đề dừng chi tiêu cho marketing, thay vào đó nó mang lại cơ hội tốt để bạn hiểu ra những nhu cầu của khách hàng và các đối tác đang biến chuyển ra sao, và cần phải ứng dụng các chiến lược vào thực tại mới như thế nào cho hợp lý”, giáo sư John Quelch giải thích trong blog của ông.

Một nghiên cứu của McGraw-Hill về các cuộc khủng hoảng kinh tế Hoa Kỳ đã tiến hành phân tích 600 công ty hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp, và kết quả của nó cho thấy rằng những công ty mô hình B2B (Business to Business – Từ doanh nghiệp tới doanh nghiệp) theo đuổi chiến lược duy trì hoặc tăng chi tiêu cho quảng cáotrong suốt giai đoạn khủng hoảng 1981 – 1982; thì cũng theo đó doanh thu của họ tăng lên tới 256%, không chỉtrong những năm khủng hoảng mà cả ba năm sau đó cũng thế – hơn hẳn những doanh nghiệp cắt giảm hoặc loại bỏ hẳn quảng cáo.

“Trước năm 1985, doanh thu của các công ty tỏ ra mình là những nhà quảng cáo tháo vát, năng nổ, đều đã lên tới con số 256% so với những công ty khác không theo đuổi chiến lược quảng cáo của mình”, nội dung bài nghiên cứu của McGraw-Hill.

Các chuyên gia trong lĩnh vực marketing đều nói rằng: kinh nghiệm từ những lần xuống dốc trước đây của nền kinh tế đã cho thấy hiệu quả của việc các tập đoàn lớn triển khai chiến dịch marketing dữ dội để chiếm lĩnh thị phần từ các đối thủ cạnh tranh ra sao. “Trong lần khủng hoảng năm 2001, Dell và Wal-Mart đã tinh mắt nhìn nhận sự suy thoái như là một cơ hội để rót nhiều vốn đầu tư hơn vào marketing so với các đối thủ kém thế. Họ đã noi gương theo những bậc đàn anh là hãng xì gà Camel và ôtô Chevrolet – những hãng nổi tiếng với chiến dịch marketing lẫy lừng trong thời kì Đại suy thoái”, ngài Makovsky trích dẫn lời của Anna Maria Virzi, tổng biên tập của The Clickz, một công ty tư vấn chuyên nghiệp về marketing số hóa có trụ sở tại New York.

Cùng hội tụ tại một điểm với các ý kiến trên, nghiên cứu của Trường kinh doanh Smeal triển khai vào năm 2005 đã tiến hành điều tra lấy ý kiến từ 154 giám đốc marketing cấp cao, và kết quả của nó cho thấy: một số công ty nhất định đã ăn nên làm ra ra sao trong thời kì khủng hoảng, đó cũng là những công ty đã sớm nhìn thấy suy thoái như một thời cơ tốt và đẩy mạnh ngân sách chi tiêu cho marketing.

Bản báo cáo xuất bản trên cộng đồng mạng BNET, một nhà cung cấp thông tin cho các chuyên gia quản lý, cũng chứng minh rằng các tập đoàn lớn như T&G, Intel và hãng bán lẻ Wal-Mart là những điển hình trong việc tận dụng suy thoái kinh tế như một công cụ để triển khai ồ ạt các chiến dịch marketing của mình. Proctor & Gamble thành công với việc tung ra loại xà bông Ivory trong thời kì Đại suy thoái, Intel thì cho ra mắt dòng sản phẩm “Intel Inside” trong giai đoạn khủng hoảng đầu những năm 1990, và Wal-Mart qua mặt các kì phùng địch thủ bằng chính sách giá thấp từng ngày (EDLP – Every Day Low Prices) trong những ngày suy tàn của năm 2000-2001”, bản báo cáo của Bnet trích dẫn nghiên cứu từ Đại học Smeal.

Thật thú vị khi một bản điều tra do CLB CMO (Chief Marketing Officer- Giám đốc Marketing) thực hiện cũng tỏ thái độ không đồng tình với việc cắt giảm ngân sách marketing, cho rằng “ngân sách cho marketing vẫn không hề bị ảnh hưởng bởi sự đi xuống của nền kinh tế”. Bản điều tra được tung ra tháng 5/2008, cho biết 71% những người tham gia đã trả lời rằng ngân sách marketing của họ không hề bị cắt giảm trong năm 2008,trong khi đó chỉ có 14% tiết lộ rằng họ đã nhìn thấy viễn cảnh của việc buộc phải cắt giảm, và quy cho nguyên nhân việc làm của mình cho những áp lực gây ra bởi cuộc khủng hoảng.

Không nằm ngoài luồng quan điểm trên, Seth Godin, một chuyên gia marketing trực tuyến, đồng thời là một tác giả có tên tuổi được nhiều người biết đến như là người truyền bá rộng rãi khái niệm về tiếp thị xin phép (permission marketing), cũng hoàn toàn tin tưởng rằng việc chi tiêu nhiều hơn cho marketing là cần thiết, chính việc này sẽ giúp củng cố niềm tin nơi khách hàng.

Trong blog của mình, Godin viết: “Tại sao các ngân hàng lại chi nhiều tiền cho những hành lang lát bằng cẩm thạch, và những bức trần nhà cao ngất tới vậy? Nguyên cớ xuất phát của việc này có lẽ cũng không khác gì so với việc có khá nhiều người trồng những thảm cỏ xanh tươi trước nhà”. Ông nói rằng những khoản chi tiêu như vậy không có ý nghĩa lý gì ngoại trừ là những khoản lãng phí có tổ chức và chủ định. “Việc tiêu dùng phóng khoáng đôi khi chính là việc người ta muốn thể hiện sự tự tin, đôi lúc là một chút ngạo mạn”.

Godin tin rằng trong những giai đoạn phải chịu nhiều sức ép tài chính và cần các cuộc giải cứu như hiện nay, giải pháp hiển nhiên mà hầu hết mọi người đều nhìn thấy – là loại bỏ tất cả các khoản chi tiêu lãng phí – đôi khi không mang lại hiệu quả gì. “Trên thực tế, chúng ta có xu hướng lo lắng hơn bao giờ hết về tình trạng tổ chức, sắp xếp mà chúng ta đang phải đối mặt”, Godin nhấn mạnh trong blog của mình, vốn được coi là một trongnhững blog kinh doanh danh tiếng nhất trên thế giới.

Feb 24, 2012

Đẩy mạnh Marketing trong thời kỳ suy thoái, tại sao không?

[Marketing3k.vn] Công ty bạn sẽ ứng xử như thế nào trong thời kỳ suy thoái? Tạm ngưng, thậm chí xóa bỏ các kế hoạch marketing? Sa thải nhân lực?... Tất cả những phương cách đó đều chưa ổn. GS John Quelch chia sẻ những ý kiến mới mẻ và tích cực hơn trong bài viết "Chiến lược Marketing trong thời kỳ suy thoái"

Những dấu hiệu của một cuộc suy thoái nặng nề luôn luôn đe dọa chúng ta. Khi niềm tin (vốn đã bị suy giảm) của người tiêu dùng bị tác động, thì tiêu dùng - thứ mà nền kinh tế Mỹ đang dựa vào, cũng bị ảnh hưởng theo. Thêm vào đó là cú sốc của người dân về vấn đề an ninh kể từ sau sự kiện 11 tháng 9, và khả năng của một cuộc chiến tranh kéo dài chống lại những kẻ thù không xác định.

Thị trường chứng khoán cũng e sợ một sự không chắc chắn, bởi chính những người tiêu dùng cũng lo sợ giống như vậy. Ở Nhật Bản, tỉ lệ lãi suất đã giảm tới mức 0%, các chính trị gia đã phải kêu gọi người dân thể hiện lòng yêu nước bằng cách chi tiêu nhiều hơn, nhưng cũng không thể bù đắp được những thương tổn về niềm tin của họ sau trận động đất Kobe và vụ tấn công bằng khí gas trong tàu điện ngầm Tokyo.

Chính nước Mỹ chứ không phải là Nhật Bản đang phải đối mặt với những khó khăn ở phía trước, và có lẽ còn lâu hơn thời kỳ chiến tranh vùng Vịnh vào đầu những năm 1990. Sau đây là 9 nhân tố mà các công ty nên ghi nhớ để có thể vượt qua thời kỳ khủng hoảng trong tương lai: 

Thứ nhất: Nghiên cứu về người tiêu dùng, thay vì cắt giảm ngân sách dành cho việc nghiên cứu thị trường. Bạn cần biết nhiều hơn về những cách khách hàng đang định nghĩa lại các giá trị như thế nào và phản ứng ra sao với suy thoái.

Những đường co giãn về giá đang thay đổi. Người tiêu dùng cũng chịu mất nhiều thời gian để tìm kiếm các mặt hàng tiêu dùng lâu bền hơn và mặc cả nhiều hơn. Họ sẵn sàng không trì hoãn việc mua hàng, mua các hàng hóa giá rẻ hơn hoặc mua ít đi nếu như ngày nay họ có thể sống mà không cần tới chúng.

Những thương hiệu đáng tin cậy thì đặc biệt là có giá trị. Họ hoàn toàn có thể vẫn thành công trong việc tung các sản phẩm ra thị trường trong khi niềm tin vào các sản phẩm và thương hiệu lại giảm dần. Những hoạt động tiêu dùng thường thấy cũng xuất hiện ít hơn. 

Thứ hai: Hãy tập trung vào các giá trị gia đình. Khi chiến tranh nổ ra, chúng ta sẽ phải rời bỏ các làng quê để tập hợp dưới lá cờ đấu tranh.

Chúng ta sẽ có xu hướng tìm kiếm những hình ảnh về không khí gia đình ấm cúng bên lò sưởi trong các quảng cáo thay cho những hình ảnh hấp dẫn của thể thao, những chuyến phiêu lưu hay chủ nghĩa cá nhân.

Sự hài hước và sự hấp dẫn sẽ không có mặt trong nỗi sợ hãi. Việc buôn bán thiệp chúc mừng, dịch vụ điện thoại, những tiêu dùng cho đồ nội thất gia đình khi cần thiết và giải trí gia đình sẽ tiếp tục tăng.

Bởi lẽ sự bất ổn đó không chỉ bắt chúng ta phải ở nhà mà còn phải liên tục giữ liên lạc với gia đình và bạn bè.

Thứ ba: Duy trì chi phí cho các hoạt động marketing. Đây không phải là thời điểm để cắt giảm các chương trình quảng cáo.

Nhiều tài liệu cho thấy rằng khi các thương hiệu tăng cường hoạt động quảng cáo của mình trong thời kỳ suy thoái kinh tế, khi các đối thủ đang cắt giảm nó, thì có thể giúp công ty tăng thị phần và sẽ có lợi với chi phí thấp hơn là lúc họ thực hiện điều đó trong thời kỳ kinh tế phát triển bình thường.

Các hãng giàu có hơn có thể xem xét tỷ lệ quảng cáo ở mức độ vừa phải và duy trì chúng trong một vài năm. Nếu bạn phải cắt giảm chi phí cho hoạt động marketing, hãy cố gắng duy trì tần suất quảng cáo bằng việc thay thế các quảng cáo trên tivi bằng việc quảng cao trên đài, hoặc tăng việc sử dụng các hình thức quảng cáo trực tiếp để có tác động lên doanh số ngay lập tức. 

Thứ tư: Hãy điều chỉnh cho phù hợp các danh mục mặt hàng. Những người làm marketing phải dự đoán được nhu cầu cho mỗi loại hàng hóa trong danh mục các mặt hàng, khi mà người tiêu dùng chọn mua những sản phẩm có giá rẻ hơn và chỉ nhấn mạnh vào chất lượng hàng, ví dụ như xe ô tô với ít chức năng hơn.

Trong những thời điểm khó khăn, các loại hàng hóa đa chức năng sẽ được ưa thích hơn là các mặt hàng chuyên dụng, và các sản phẩm kém hơn trong danh mục cũng sẽ bị loại dần.

Đối với nhóm hàng tạp hóa, những chương hiệu riêng với chất lượng cao chiếm ưu thế hơn các thương hiệu riêng với chất lượng cao chiếm ưu thế hơn các thương hiệu có chất lượng quốc gia. Các khách hàng công nghiệp cũng không được tính riêng lẻ.

Những mẹo quảng cáo cũng trở nên không có tác dụng, thực tế chỉ có chất lượng, sự an toàn, độ tin cậy và độ bền của hàng hóa mới có thể tồn tại được.Các sản phẩm mới, đặc biệt là những sản phẩm có thể chứng minh cho người tiêu dùng chất lượng thực sự để từ đó gây áp lực lên đối thủ cạnh tranh vẫn cần được quảng bá, nhưng tung ra các chương trình quảng cáo là để nhấn mạnh vào mức giá cạnh tranh vượt trội chứ không phải là cho hình ảnh của công ty. 

Thứ năm: Hợp tác với các nhà phân phối. Trong những thời kỳ bất ổn, không ai muốn trói chặt nguồn vốn lưu động của mình trong đống hàng tồn kho. 

Ưu đãi cho những người mua sớm, tài trợ thêm và nhiều chính sách trả lại hào phóng sẽ thúc đẩy các nhà phân phối mua nhiều hàng của bạn. Điều này đặc biệt đúng với các sản phẩm mới chưa được khẳng định. 

Hãy cẩn trọng khi mở rộng mạng lưới phân phối với nhiều kênh giá rẻ hơn, bởi lẽ nếu làm như vậy sẽ gây ảnh hưởng tới hình ảnh của công ty bạn và mối quan hệ với nhà phân phối đã có. Nếu suy thoái kinh tế diễn ra trong thời gian ngắn, biện pháp này cũng sẽ không đem lại lợi nhuận.

Tuy nhiên, đây cũng có thể là lúc bạn cắt giảm những nhà phân phối không hiệu quả và tăng cường lực lượng kinh doanh bằng việc tuyển thêm những người đã bị các công ty khác sa thải. 

Thứ sáu: Chiến lược điều chỉnh giá. Các khách hàng sẽ mua hàng với mức giá hợp lý nhất.

Bạn cũng không cần thiết phải cắt giảm giá đã niêm yết, nhưng có thể cần tăng thêm những chiến dịch khuyến mãi giá trong thời gian ngắn, giảm chiết khấu sản lượng, mở rộng tín dụng cho những khách hàng lâu năm và tăng cường việc tạo ra các gói hàng với giá thấp hơn.

Trong những thời điểm khó khăn, việc cắt giảm giá sẽ thu hút được nhiều khách hàng hơn là các chương trình khuyến mãi như đánh cược hay những lời đề nghị qua thư điện tử. 

Thứ bảy: Củng cố thị phần. Củng cố trong tất cả thị trường nhưng chủ yếu ở một số sản phẩm có triển vọng phát triển cao, ví dụ như các dịch vụ an ninh hay quay camera.

Các công ty trong một cuộc chiến giành về thị phần, và trong một vài trường hợp, có thể là vì sự tồn tại. Biết rõ về cơ cấu chi phí sẽ đảm bảo cho bất kỳ một sự cắt giảm hay sáng kiến hợp nhất nào cũng đều tiết kiệm được tối đa tiền bạc, nhưng lại tác động ít nhất tới khách hàng.

Với vị trí vững chắc và cơ cấu chi phí tốt nhất, các công ty như Wal-Mart và hãng hàng không Southwest (Southwest Airlines) có cơ sở để hy vọng vào việc tăng thị phần. Nhiều công ty khác với báo cáo tài chính tốt hoàn toàn có thể làm được điều này bằng cách chiến thắng các đối thủ yếu. 

Thứ tám: Nhấn mạnh giá trị cốt lõi. Mặc dù nhiều công ty đã phải cắt giảm nhân lực, song các giám đốc điều hành vẫn có thể củng cố lòng trung thành của những người ở lại bằng cách nhấn mạnh vào những giá trị cốt lõi của công ty, trấn an các nhân viên của mình rằng công ty đã phải vượt qua những thời kỳ khó khăn trước đây, duy trì chất lượng sẽ tốt hơn cắt giảm những khoản đầu cơ, và phục vụ các khách hàng hiện tại sẽ tốt hơn cố gắng phục vụ tất cả mọi người.

Khả năng lãnh đạo tốt là điều cần thiết, các giám đốc điều hành cần giành nhiều thời gian hơn với khách hàng và nhân viên của mình. 

Suy thoái kinh tế có khả năng làm bản báo cáo của giám đốc tài chính trở nên quan trọng hơn báo cáo thu nhập của giám đốc marketing. Quản lý vốn lưu động có thể dễ dàng lấn át quản lý mối quan hệ với khách hàng. Các giám đốc điều hành phải vượt được qua điều này. Những công ty thành công không vứt bỏ các chiến lược marketing trong thời kỳ suy thoái mà phải biết thích nghi với nó.

Thứ chín: Nhìn về tương lai. Nhu cầu thấp hơn về xe hơi và các kỳ nghỉ tạo ra nhu cầu tiềm năng mà những người làm marketing phải nắm bắt và sẵn sàng đáp ứng khi niềm tin của người tiêu dùng tăng lên.

Nhưng điều đó không có nghĩa là nhảy vào ngay khi có dấu hiệu tích cực đầu tiên. Niềm tin của người tiêu dùng đã tăng trong hai tháng liên tiếp sau khi kết thúc chiến tranh vùng Vịnh, nhưng rồi lại giảm xuống. Suy thoái kinh tế sẽ kéo dài trong cả một năm.

Tương tự như vậy, việc bắt giữ được Osama Bin Laden sẽ có thể làm tăng niềm tin của người tiêu dùng, nhưng điều đó chỉ xảy ra trong một thời gian ngắn.

Feb 22, 2012

Xu thế của 10 ngành kinh doanh nhượng quyền trong năm 2012

[Marketing3k.vn] Điều gì sẽ xảy ra với khu vực nhượng quyền trong tương lai? Bạn hãy xem dự báo 10 xu thế ngành hàng trong năm 2012 của trang Entrepreneur để có được hướng đầu tư tốt nhất cho mình.
Điều gì sẽ xảy ra với khu vực nhượng quyền trong tương lai? Căn cứ vào dự báo 10 xu thế ngành hàng trong năm 2012 của trang Entrepreneur thì những ngành chăm sóc trẻ em và người lớn tuổi trước đã mạnh thì sắp tới còn mạnh hơn bởi nhóm đối tượng khách hàng của họ đang ngày càng trở nên đông đảo.

Những ngành khác như dịch vụ y tế và spa dù mới “làm mưa làm gió” ở lĩnh vực nhượng quyền nhưng trong năm tới, những phân nhóm ngành này hoàn toàn có điều kiện để tiếp tục tăng trưởng, bất kể tình hình kinh tế của thế giới sẽ ra sao và bất kể ngành đó mới hay cũ. 

(Lưu ý: Dự báo xu thế ngành hàng này không nhằm mục đích giới thiệu hay quảng bá cho một công ty nhượng quyền nào đó. Và dù có “nóng” hay không thì bạn cũng nên xem xét thật kỹ những cơ hội và thách thức trước khi tham gia vào một ngành hàng. Nói một cách khác, bạn phải đọc thật kỹ hồ sơ của đơn vị nhượng quyền, tham khảo ý kiến của luật sư và kế toán, trao đổi với những đơn vị được nhượng quyền trước và nay để tìm hiểu xem đơn vị nhượng quyền có phù hợp với mình hay không).

Ngành ăn nhanh

Một thế hệ mới các cửa hàng ăn nhanh chất lượng hơn đang mọc lên trong khi các đơn vị nhượng quyền “tiền bối” tiếp tục thử nghiệm những món mới trên thực đơn của mình để có thể cạnh tranh.

Ngành chăm sóc trẻ em

Chăm sóc trẻ em là nhu cầu không thể thiếu và hiện các đơn vị nhượng quyền đang dành cho những ông bố bà mẹ vô số các lựa chọn, từ dịch vụ cô trông trẻ, bảo mẫu cho đến các trung tâm chăm sóc, giáo dục trẻ em. 


Ngành bồi dưỡng năng khiếu cho trẻ

Trẻ em ngày càng năng động. Chính vì thế nên dù có mở lớp vẽ, tạo hình, thể thao, vi tính, hay khoa học thì đơn vị nhượng quyền vẫn sẽ hút khách hàng nhí. 


Ngành thể dục thể thao

Ngành thể dục, thể thao sẽ vẫn tiếp tục phát triển mạnh. Chỉ cần có quyết tâm là người tập có vô khối các phòng tập nhượng quyền để lựa chọn học khiêu vũ, võ thuật, đấm bốc…


Ngành dịch vụ y tế 

Ngày càng có nhiều các công ty tìm kiếm và lôi kéo các bác sỹ phẫu thuật tham gia khu vực nhượng quyền để làm những dịch vụ như giảm cân, vật lý trị liệu, nắn xương và đặc trị. 

Ngành bán đồ thanh lý 

Các cửa hàng bán đồ thanh lý đang tái sinh trở lại nhờ những vị khách hàng muốn tìm cách bán bớt đồ của mình đi để có thêm tiền. Mặc dù quần áo là món hàng thanh lý chủ yếu nhưng bên cạnh đó bạn cũng có thể thấy cả đồ điện tử, thể thao và thậm chí cả nhạc cụ.


Ngành kinh doanh bánh kẹp sandwich

Năm nay Subway đã “qua mặt” McDonald's để trở thành chuỗi cửa hàng bánh mỳ kẹp lớn nhất trên thế giới. Điều này chứng tỏ bánh mỳ kẹp “lợi hại” thế nào. Và ngành này hiện vẫn còn nhiều đất cho những cửa hàng nhượng quyền nhỏ phát triển, bất kể là đã có một gã khổng lồ có tên Subway. 

Ngành chăm sóc người cao tuổi 

Với thực tế là đứa trẻ đầu tiên của thế hệ baby boomer (bùng nổ dân số) đã bước sang tuổi thứ 65 vào năm nay thì thị trường dịch vụ cho người cao tuổi vốn đã mạnh sẽ còn hứa hẹn những cú đột phá. Các đơn vị nhượng quyền hiện đang “chào” nhiều loại dịch vụ, từ đơn giản như cho thuê người làm bầu bạn cho đến chăm sóc y tế, trại an dưỡng, dịch vụ vận chuyển...

Ngành dịch vụ Spa 

Trái với dự đoán, các doanh nghiệp nhượng quyền chuyên cung cấp các dịch vụ xa xỉ như mát-xa và spa sẽ “phất” trong điều kiện kinh tế khó khăn, chủ yếu là nhờ mô hình hội viên/khách hàng thường xuyên. 


Ngành gia sư

Giáo dục là lĩnh vực các ông bố bà mẹ sẽ không tiếc tiền đầu tư cho con cái họ. Vì thế không có gì lạ khi số trung tâm gia sư nhượng quyền đã lên tới hàng ngàn và sẽ còn tiếp tục tăng trong tương lai. 

Sang số

Một điểm mấu chốt làm cho các trung tâm thể dục, thể thao nhượng quyền rất được “chuộng”: đó là sự tiện lợi. Một trung tâm thể dục nhỏ mở cửa từ sáng đến đêm dĩ nhiên là đáp ứng được điều kiện của tất cả mọi người, từ những chuyên gia chỉ có nửa giờ ăn trưa cho đến những công nhân làm ca. Tuy nhiên, vẫn còn một số nhóm đối tượng bị bỏ quên: những người lái xe tải đường dài, những đứa trẻ béo phì vì gà rán, khoai tây chiên, những đối tượng ít vận động.


Chính vì thế mới đây Snap Fitness đã phối hợp với Rolling Strong – một công ty chăm sóc sức khỏe cho các lái xe – để mở thí điểm những phòng tập di dộng tại các điểm đỗ xe tải Pilot Flying J trên khắp nước Mỹ trong quý 1 năm 2012. Thay vì ngồi trong bãi để xe nhâm nhi trà, cà phê, những người lái xe có thể vào phòng tập rộng 90m2 đặt trong một xe công-ten-nơ để sử dụng máy chạy bộ, xe tập đạp và máy tạ. Mức phí hàng tháng để được tham gia các phòng tập kiểu này của Snap Fitness là 29,95 USD. Với mô hình dịch vụ này, tất cả các bên đều được lợi: người lái xe được nâng cao sức khỏe, Snap có thêm khách hàng, Pilot Flying J thu hút mọi người đến để tập luyện. 

"Lái xe là những người bị chi phối bởi thói quen” – Peter Taunton, người sáng lập kiêm CEO của Snap nhận xét. “Khi thói quen đã ăn sâu, họ sẽ lập lịch trình cho chuyến đi để có thể dừng lại tập thể dục trước khi lên xe đi tiếp chặng đường dài hàng trăm cây số”. 

Điểm đỗ xe mới chỉ là khởi đầu. Snap và các trung tâm thể dục, thể thao đang tìm cách đưa các phòng tập vào khách sạn, sân bay, khu ký túc xá và nhiều khu vực tiềm năng khác. Lời khuyên của tác giả: nên đặt cả phòng tập trong những cửa hàng ăn nhanh – như thế mọi người sẽ đỡ mất công chạy sang phòng tập. 

Trần Thu Phượng Dịch từ Entrepreneur
Bài đọc thêm:

Feb 21, 2012

Khủng hoảng: Đừng trông đợi quản trị toàn cầu?

[Marketing3k.vn] Sự vắng mặt của các tổ chức toàn cầu - hành động như người cho vay cuối cùng hoặc thực hiện những gói kích thích tài chính phối hợp - làm trầm trọng thêm cuộc khủng hoảng và trì hoãn sự phục hồi.

Mọi người đều đồng ý rằng nền kinh tế thế giới ốm yếu nhưng việc chuẩn bệnh rõ ràng phụ thuộc vào việc bạn sống ở nơi nào trên thế giới. Tại Washington, những ngón tay buộc tội hướng vào Trung Quốc, đổ lỗi cho chính sách tiền tệ của nước này gây ra sự mất cân bằng thương mại lớn và "phá hoại công ăn việc làm" tại Mỹ.

Đến Seoul hoặc Brazil, bạn sẽ nghe thấy những lời than phiền rằng các chính sách tiền tệ siêu nới lỏng của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ đã khiến cho các thị trường mới nổi bị cuốn trôi trong vốn nổi và gia tăng bóng ma ám ảnh của bong bóng bất động sản. Tại Berlin, những lời trách cứ là về sự vắng mặt của sự đáng tin cậy về tài chính và cải cách cơ cấu ở bất cứ nơi nào khác tại châu Âu hoặc tại Mỹ.

Lỗi lầm, thưa mọi người, không phải ở những nước trên hay cũng không phải ở chính bản thân chúng ta. Nhờ có toàn cầu hóa, lỗi lầm nằm trong các đối tác thương mại của chúng ta!

Như bản thân nó có thể chỉ ra, quan điểm này không phải là không đáng khen. Khi các nền kinh tế trở nên gắn bó với nhau, các quyết định được đưa ra tại một nơi trên thế giới có tác động đến những nơi khác, thường tạo ra những hệ quả ngoài ý muốn.

Sự bùng nổ của cuộc khủng hoảng thế chấp phẩm chất kém không chỉ bị thúc đẩy bởi những thất bại điều tiết trong nước mà còn bởi "thặng dư tiết kiệm" toàn cầu, đẩy các ngân hàng vào một cuộc dượt đuổi lợi nhuận điên cuồng. Cuộc khủng hoảng Mỹ nhanh chóng biến thành sự phát tán toàn cầu do sự hòa lẫn các bảng cân đối tài sản và nợ xuyên các quốc gia.

Sự vắng mặt của các tổ chức toàn cầu - hành động như người cho vay cuối cùng hoặc thực hiện những gói kích thích tài chính phối hợp - làm trầm trọng thêm cuộc khủng hoảng và trì hoãn sự phục hồi. Và giờ, các chính sách tài khóa, tiền tệ và tỷ giá hối đoái riêng rẽ đang lan tràn xuyên khắp các biên giới quốc gia, báo hiệu các cuộc chiến tranh tiền tệ và chủ nghĩa bảo hộ.

Chúng ta sẽ giải quyết những thách thức này như thế nào là câu hỏi kinh tế lớn nhất thời đại chúng ta. Một biện pháp được các nhà kỹ trị và hầu hết các nhà hoạch định chính sách ủng hộ, ít nhất là trước khi tính đến các chính sách trong nước, là tìm kiếm sự an ủi trong việc quản trị toàn cầu lớn hơn bao giờ hết.


Sau cùng thì các vấn đề toàn cầu đòi hỏi các giải pháp toàn cầu, nghĩa là củng cố các tổ chức quốc tế giống như Quỹ Tiền tệ Quốc tế, tăng hiệu quả của các diễn đàn toàn cầu ví như G-20, và đàm phán các tiêu chuẩn và quy tắc quốc tế chặt chẽ hơn (như đã từng xảy ra với các yêu cầu về an toàn vốn là một ví dụ).

Một biện pháp khác là công nhận rằng quản trị toàn cầu chắc cắn vẫn còn chưa hoàn thiện và tiết chế các tác dụng phụ thông qua hình thức toàn cầu hóa kinh tế cẩn trọng hơn. Chiến lược này đòi hỏi một số ngáng trở hoạt động của nền kinh tế toàn cầu để mở rộng không gian cho các chính sách trong nước và hạn chế ảnh hưởng của việc lan rộng bất lợi từ hoạt động của các nước khác. Giải pháp này có vẻ mang tính bảo hộ nhưng nó rút cuộc có thể đảm bảo sự toàn cầu hóa lâu bền hơn.

Rất nhiều vấn đề của nền kinh tế thế giới ngày nay xuất phát từ sự không sẵn sàng công nhận rằng các mục tiêu chính sách trong nước rút cuộc sẽ chiến thắng các trách nhiệm toàn cầu cho dù chúng ta có giả vờ rằng những trách nhiệm này có thể được gộp vào các cam kết quốc tế nhiều đến đâu. Hãy xem xét một vài ví dụ.

Vòng đàm phán Uruguay của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) được hoan nghênh rộng rãi như một thành tựu lớn vì nó đặt trợ cấp và rất nhiều loại chính sách công nghiệp khác được thực hiện bởi các quốc gia đang phát triển dưới những nguyên tắc quốc tế nghiêm khắc. Tuy nhiên, những hạn chế của WTO chỉ đơn giản là khiến cho các chính phủ theo đuổi những mục tiêu tương tự thông qua các biện pháp khác.

Điều này có một số sự hiểu ngầm trong trường hợp của Trung Quốc. Khi Trung Quốc trở thành thành viên của WTO vào năm 2001, nước này không còn được dựa vào thuế nhập khảu và trợ cấp. Vì vậy, thay vào đó Trung Quốc bắt đầu thúc đẩy các ngành công nghiệp thông qua đồng tiền bị định giá thấp. Thặng dư tài khoản vãng lai của Trung Quốc tăng nhảy vọt làm dấy lên sự mất cân bằng kinh tế vĩ mô toàn cầu và cùng với đó là căng thẳng trong mối quan hệ kinh tế Trung - Mỹ.

Nền kinh tế thế giới đáng lẽ đã tốt hơn với ít hạn chế hơn về việc sử dụng các chính sách công nghiệp của Trung Quốc (và các nước đang phát triển khác). Và, nhìn về phía trước, nếu các nước còn lại trên thế giới muốn Trung Quốc chấp nhận sự giám sát đa phương lớn hơn đối với cân bằng thương mại của nước này thì chắc chắn phải có gì để đổi lại cho điều đó - có thể là sự miễn trừ với những quy định của WTO về trợ cấp.

Tương tự vậy, khi các thị trường mới nổi mở cửa với toàn cầu hóa tài chính, họ suy luận rằng các luồng tiền sẽ hỗ trợ sự phát triển kinh tế nước họ. Các nước này nghĩ rằng các chính sách kinh tế vĩ mô thích hợp và các quy định khôn ngoan (cùng với sự hỗ trợ từ các tổ chức tài chính quốc tế) sẽ giúp họ ứng phó với những tác động bất lợi. Tuy nhiên, thị trường tài chính hóa ra lại là một người bạn phù thịnh: chẳng thấy mặt đâu khi cần nhất.

Điều đó đẩy các quốc gia đang phát triển vào những nỗ lực tốn kém để bảo vệ nền kinh tế nước họ khỏi sự không kiên định của các thị trường tài chính. Tệ hơn nữa, họ đã phải áp dụng những chiến lược - chẳng hạn như can thiệp tiền tệ và tích lũy dự trữ ngoại hối - nhằm đẩy những bất ổn tài chính sang nước khác. Đáng lẽ sẽ tốt hơn khi tránh tất cả những việc này bằng cách thực hiện việc mở cửa với thị trường tài chính toàn cầu cận thẩn hơn ngay từ đầu.

Những người ủng hộ quản trị toàn cầu lớn hơn cảnh báo chúng ta rằng không có những quy tắc kinh tế quốc tế chặt chẽ hơn, sự miễn phí-cho-tất cả sẽ khiến cho tất cả các nước còn tồi tệ hơn. Nhưng sẽ là sai lầm khi tưởng tượng nền kinh tế thế giới giống như thể, ví dụ, khí hậu toàn cầu - với sức khỏe và sự ổn định phụ thuộc vào việc theo đuổi những mục tiêu toàn cầu thay vì cục bộ từng quốc gia.

Các nhà kinh tế giảng dạy tác dụng của thương mại mở cửa bởi vì nó mang lợi cho chúng ta chứ không phải vì nó mang lại lợi ích cho người khác. Đưa nền kinh tế trong nước tới thị trường toàn cầu - không giống như cắt giảm khí thải nhà kính - mang lại những lợi ích của riêng nó. Một nền kinh tế thế giới được tạo thành từ các quốc gia theo đuổi các lợi ích quốc gia của riêng minh có thể không bị siêu toàn cầu hóa nhưng nhìn chung nó sẽ là một nền kinh tế mở.

Chắc chắn, nền kinh tế toàn cầu cần một số những quy tắc giao thông nơi có những hiệu ứng lan tỏa xuyên biên giới rõ ràng. Tuy nhiên sự cân bằng giữa đặc quyền quốc gia và các quy tắc quốc tế phải dựa trên thực tế chính trị. Nếu chúng ta đổi hướng quá xa với sự quản trị toàn cầu, chúng ta sẽ kết thúc với những quy tắc vô nghĩa chắc chắn sẽ bị coi thường.

Tác giả: DANI RODRIK* (TUYẾN NGUYỄN DỊCH) 
______________

* Dani Rodrik là Giáo sư Kinh tế chính trị học tại trường Chính phủ John F. Kennedy thuộc trường đại học Harvard và là tác giả của cuốn One Economics, Many Recipes: Globalization, Institutions, and Economic Growth (tạm dịch: Một Kinh tế học, Nhiều phương pháp: Toàn cầu hóa, Các tổ chức và Tăng trưởng kinh tế).